Kỷ niệm 50 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” (12.1972 - 12.2022)
Gặp Anh hùng vạch nhiễu tìm sóng B-52
QPTĐ-Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" (12/1972-12/2022), chúng tôi gặp Anh hùng LLVT, Trung tướng Phan Thu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng để nghe ông kể chuyện chiến đấu hào hùng của quân và dân Thủ đô những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Trong đó, lực lượng trinh sát nhiễu, những người lập công đầu trong việc “vạch nhiễu”, giúp các lực lượng khác xác định mục tiêu, bắn hạ máy bay địch.
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trinh sát nhiễu Phan Thu (ngoài cùng bên phải).
Chuyện về những tấm ảnh nhiễu
“Bê năm hai tan xác cháy sáng bầu trời/ Hào khí Thăng Long ánh lên ngời ngời…”. Ca khúc “Hà Nội-Điện Biên Phủ” của nhạc sĩ Phạm Tuyên đã dẫn dắt cảm xúc của Trung tướng Phan Thu nhớ về những ngày đánh Mỹ. Dòng ký ức hiện lên, ông chậm rãi: Để có được những chiến thắng vang dội trên bầu trời miền Bắc, không thể không kể đến sự đóng góp "thầm lặng" của lực lượng trinh sát nhiễu. Đúng vào thời kỳ đế quốc Mỹ đưa máy bay B-52 (pháo đài bay) đánh phá miền Bắc Việt Nam với hệ thống gây nhiễu của chúng, tất cả các loại ra-đa cảnh giới, cao xạ, tên lửa của ta đều bị nhiễu nặng, rất khó phát hiện máy bay địch. Trước yêu cầu của cuộc chiến đấu, ngày 10/1/1967, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân ký quyết định thành lập Đội Trinh sát nhiễu (thuộc Bộ Tham mưu Quân chủng). Tôi được cử làm Đội trưởng và được Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ dẫn Đội vào Vĩnh Linh trinh sát nhiễu. Đội Trinh sát nhiễu ban đầu chỉ có 34 đồng chí là cán bộ, trắc thủ, thợ sửa chữa ra-đa từ các đơn vị Quân chủng điều về, có nhiệm vụ nắm tình hình gây nhiễu của địch, nghiên cứu tìm ra biện pháp chống nhiễu và phổ biến kinh nghiệm chống nhiễu cho các đơn vị trong toàn Quân chủng. Ngày 16/01/1970, Đội Trinh sát nhiễu được phát triển thành Tiểu đoàn Trinh sát nhiễu, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 8 (d8), tôi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng.
Rồi ông kể, thời kỳ đó, ông và đồng chí La Văn Sàng là 2 người duy nhất trong Quân chủng Phòng không-Không quân thực hiện nhiệm vụ chụp các ảnh nhiễu trên màn hiện sóng của các loại ra-đa, tên lửa. Từ những “nhiếp ảnh viên” không chuyên, được chuyên môn hóa dần từng ngày, làm nhiều thì lên tay, ảnh đẹp dần, rõ dần qua từng trận chiến đấu. Ông chia sẻ: “Dạng nhiễu thì đủ kiểu, đủ loại, với những tên gọi khác nhau mà trắc thủ thường đặt cho theo hình dáng của chúng. Nào là nhiễu quét, nhiễu giọt mưa, nhiễu xoắn thừng, nhiễu râu… Những “nhiếp ảnh viên” chúng tôi, ngoài việc chụp nên những tấm ảnh chân thực, còn là những người nghiên cứu tìm ra bản chất của chúng. Tại sao lại có nhiễu quét, nó quét vậy thì bám sát dải nhiễu vào đâu thì đúng? Tại sao có nhiễu râu? Với nhiễu râu thì đâu là tín hiệu phải bám sát vào, đâu là tín hiệu giả phải tránh? Cứ như vậy, chúng tôi phải giải thích cho được để làm rõ vì việc này rất quan trọng, nó quyết định việc chọn phương pháp bắn và chọn điểm bám sát dải nhiễu để đánh bằng phương pháp “3 điểm”.
Dừng lại một lúc, ông Thu kể tiếp: “Bên cạnh tài liệu phân tích bản chất các dạng nhiễu trên màn hiện sóng rađa tên lửa, chúng tôi còn xây dựng một tập ảnh nhiễu trên màn hiện sóng các loại ra-đa cảnh giới, ra-đa đo cao, ra-đa cao xạ, ra-đa tên lửa. Tập ảnh này được sử dụng tại các hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu và được in ra nhiều bản gửi đến các đơn vị trong toàn Quân chủng làm tài liệu huấn luyện chiến đấu”.
Theo Trung tướng Phan Thu, việc nghiên cứu nhiễu trên màn hiện sóng tên lửa đã góp phần xây dựng cách đánh. Đặc biệt là qua trận chiến đấu của Tiểu đoàn 84 trên Đường 20, ta phát hiện được B-52 ở cự ly 23 km. Tuy chưa bắn rơi B-52 nhưng cũng cho ta một kết luận là, ra-đa của tên lửa Sam-2 hoàn toàn có thể bắt được B-52 khi B-52 bay vào đến một cự ly nhất định, ngay trên nền nhiễu của bản thân nó. Sau này, ông và đồng đội nghiên cứu các loại máy gây nhiễu thu được từ các máy bay Mỹ bị bắn rơi; cải tiến kỹ thuật cho ra-đa pháo; cải tiến chống nhiễu rãnh đạn cho đạn SAM-2…
Vào giữa năm 1968, phòng nghiên cứu kỹ thuật Quân chủng đã kết hợp với lực lượng trinh sát nhiễu soạn thảo một tài liệu phân tích bản chất các loại nhiễu của địch trên màn hiện sóng của đài điều khiển tên lửa phòng không của ta và được Bộ Tư lệnh Binh chủng Tên lửa (khi đó tên lửa được tổ chức thành một binh chủng) cho in gửi đến các tiểu đoàn tên lửa. Tập ảnh nhiễu đầu tiên của Quân chủng trên các màn hiện sóng của các loại ra-đa, cũng được xây dựng từ kết quả nghiên cứu độ nhiễu và sử dụng làm tài liệu huấn luyện trắc thủ trong toàn Quân chủng.
"Anh chàng cổ lỗ sĩ” vạch mặt B-52
Trong hồi ký “Bảo vệ bầu trời” do Nhà xuất bản báo Quân đội nhân dân phát hành năm 1982, Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, nguyên Chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân đã viết ở trang 304: “Rõ ràng, dù phương tiện chiến tranh có phát triển hiện đại đến đâu, đôi khi một biện pháp thô sơ cũng góp phần làm nên chiến thắng. Xuất phát từ suy nghĩ như thế, đồng chí Phan Thu đã mạnh dạn đề xuất với Bộ Tư lệnh Quân chủng cho sử dụng loại ra-đa thuộc thế hệ “sắp đưa vào bảo tàng”, dùng để bắt B-52. Và kết quả thật bất ngờ! Trong Chiến dịch 12 ngày đêm, chính loại máy này đã bắt được B-52 dễ dàng hơn các loại máy khác…”. Vậy đài ra-đa đó tên gọi là gì?
Đài ra-đa đó có tên là ra-đa K8-60, trang bị cho pháo phòng không 57mm. Phó Chính ủy Quân chủng Nguyễn Xuân Mậu khi ấy thi vị hóa gọi nó là anh chàng “cổ lỗ sĩ” chứ thực ra nó là loại ra-đa hiện đại thời bấy giờ, nó còn hiện đại hơn cả ra-đa COH-9A vì nó chính là ra-đa COH-9A nhưng có thêm một tần số làm việc ở dải sóng 3cm. Trong 12 ngày đêm B-52 vào đánh Hà Nội, các ra-đa K8-60 trang bị cho Tiểu đoàn 57 và Tiểu đoàn 79 đã nhiều lần bắt được B-52 và đóng vai trò quan trọng chỉ dẫn chính xác vị trí B-52 cho đài điều khiển tên lửa bắt B-52 và đánh B-52… Trong hội nghị rút kinh nghiệm đánh B-52 đêm Noel ngày 24/12/1972, tại sở Chỉ huy Quân chủng ở trong hầm núi chùa Trầm, đồng chí Lê Văn Tri đã lệnh cho tất cả các ra-đa K8-60 nằm trên địa bàn Hà Nội, từ ngày 25/12/1972 phải mở máy bắt B-52. Nếu phát hiện được thì phải thông báo ngược về Sở chỉ huy Trung đoàn, Sư đoàn và Quân chủng.
Trung tướng Phan Thu khẳng định: “Chúng ta đã giành thắng lợi bằng chính thực lực, sức mạnh của mình mà không hề có sự may rủi nào! Điều quan trọng là chúng ta đề cao vai trò con người trong chiến tranh, trong nghiên cứu nhiễu và chống nhiễu, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và vũ khí, trang bị (VKTB); chính trị, tư tưởng và kỹ thuật; kỹ thuật và chiến thuật; cải tiến kỹ thuật nâng cao khả năng của VKTB và huấn luyện bảo đảm thành thạo thao tác sử dụng VKTB của người chiến sĩ”.
19 tuổi tham gia cách mạng
Trung tướng Phan Thu sinh năm 1931, quê ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Năm 1950, ông nhập ngũ và được cử đi học tại Trường Lục quân khóa VI ngành Pháo binh ở Trung Quốc. Từ 1954-1967, ông làm Trợ lý ra-đa phòng huấn luyện Sư đoàn Phòng không 367. Năm 1967, ông được bổ nhiệm làm Phó phòng Khoa học Quân sự rồi làm Đội trưởng Đội trinh sát nhiễu kiêm Phó phòng Quân báo. Sau chiến thắng vang dội “Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không”, Trung tướng Phan Thu còn lập được nhiều thành tích trên các cương vị công tác khác nhau. Ông đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu, trưởng thành, trở thành Ủy viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội và được giao trọng trách Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp quốc phòng). Ngày 25 tháng 8 năm 1970, Phan Thu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
Trung tướng Phan Thu và tác giả.