A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Danh nhân Việt Nam tuổi Sửu

 

 

TUỔI ẤT SỬU

Trần Nguyên Đán (1325-1390): Ông là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, hiệu là Băng Hồ, là chắt nội của Trần Quang Khải và là ông ngoại của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Đời Trần Dụ Tông, ông được bổ làm Ngự sử đại phu; đời Nghệ Tông lên chức Tư đồ, tước Chương Túc hầu. Ông sống vào lúc triều Trần vào buổi suy vi nên mang trong mình rất nhiều tâm sự. Những tâm sự này được ông đưa vào thơ văn của mình. Đó là lòng thương dân, là cảm giác thấy mình bất lực nên trở thành vô dụng. Năm Ất Sửu (1385) ông về Côn Sơn ở ẩn và 5 năm sau mất, thọ 65 tuổi.

LÊ LỢI (1385-1433): Lê Lợi quê tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lê Lợi là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh, là anh hùng giải phóng dân tộc và là người sáng lập vương triều nhà Lê, mở ra thời kỳ thịnh trị lâu dài trong lịch sử dân tộc. Sau khi đánh thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua với hiệu là Lê Thái Tổ, ở ngôi 5 năm và cũng mất vào năm Sửu (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa.

ĐOÀN GIỎI (1925-1989): Nhà văn danh tiếng, quê Tiền Giang. Hồn hậu, nghị lực, mẫn cảm, say mê văn thơ và nghệ thuật. Trước Cách mạng Tháng Tám, học tại Mỹ Tho, Sài Gòn và sớm viết văn, làm thơ, làm báo. Sau năm 1945, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ trách công tác tuyên huấn rồi an ninh. Năm 1954, tập kết ra Bắc, là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được bạn đọc cả nước mến mộ bởi có bút pháp tài hoa, bình dân, tự nhiên, thấm đẫm chất đồng quê và phong tục, tình người Nam bộ (thể hiện đặc sắc nhất trong tác phẩm Đất rừng phương Nam).

Tái hiện cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Anh hùng dân tộc Lê Lợi.

TUỔI ĐINH SỬU

NGUYỄN ĐĂNG (1577-1638): Danh sĩ thời Lê, quê Bắc Ninh. Học rất giỏi, cả bốn kỳ thi Hương, Hội, Đình và Ứng chế đều đỗ đầu, trở thành vị “Tứ nguyên” xuất sắc nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời xưa. Ông làm quan tới Thị lang, từng đi sứ Trung Quốc và là tác giả của nhiều bộ sách giá trị.

Nguyễn Hữu Thận (1757-1831): Ông quê ở Triệu Phong, Quảng Trị là nhà toán học và danh sĩ nổi tiếng thời Nguyễn, làm quan triều Tây Sơn và Gia Long đến chức Thượng thư Bộ hộ, coi sóc Tòa Khâm thiên giám. Nổi tiếng về toán học và thiên văn, mất năm 1831. Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Ý Trai Toán pháp nhất đắc lực; Tam thiên tự lịch đại văn chú; Bách ti chức chế-nói về nhiệm vụ và thể chế các ti, sở của triều Nguyễn.

Ngụy Khắc Đản (1817-1873): Ông là danh sĩ đời Tự Đức; quê ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đỗ cử nhân năm Tân Sửu 1841 và đỗ thám hoa năm 1856, lúc 39 tuổi. Làm quan đời Tự Đức từ tri phủ Thăng Bình-Quảng Nam thăng dần Thượng thư bộ Công. Năm 1863, ông cùng Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ đi sứ nước Pháp thương thuyết chuộc ba tỉnh miền Đông nhưng  thất bại trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp. Ông để lại nhiều tác phẩm trong đó có Tây phù nhật kí (Nhật kí đi Pháp).

Khu di tích đền thờ Lý Thường Kiệt ở Tam Giang, Yên Phong, Bắc Ninh.

TUỔI KỶ SỬU

Lý Thường Kiệt (1019-1105): Ông tên thật là Ngô Tuấn, sinh năm Kỷ Sửu, là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu 6 đời của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long tức Hà Nội ngày nay. Ông là người có công phá Tống bình Chiêm, được ban “quốc tính”, mang họ vua, phong làm Phụ quốc thái phó, Thiên tử nghĩa đệ, Phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau thêm tước Thái úy. Tháng 6 năm 1105, ông mất, thọ 87 tuổi. Vua Lý Nhân Tông ban tước Việt quốc công. Ông cũng là tác giả của áng thơ bất hủ: “Nam Quốc Sơn Hà”-được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.

NGUYỄN TRUNG NGẠN (1289-1370): Danh sĩ thời Trần, quê Hưng Yên. 15 tuổi đã đỗ Hoàng giáp, làm quan trải nhiều chức vị, thăng tới Hành khiển. Tận tụy phụng sự suốt 5 đời vua, được triều đình và nhân dân mến trọng bởi có kiến thức uyên bác cùng lối sống chính trực, thanh liêm, nhân hậu. Ông cũng để lại những công trình giá trị về luật pháp, hành chính, ngoại giao, quân sự, văn thơ.

NGUYỄN VĂN TỐ (1889-1947): Học giả cận đại, quê Hà Nội. Uyên thâm, cương trực, khảng khái, tinh thông ngôn ngữ Việt-Hán-Pháp. Trước năm 1945, ông  làm việc tại Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội, Hội trưởng Hội Trí tri và Hội Truyền bá Quốc ngữ. Từ Cách mạng Tháng Tám, giữ chức Bộ trưởng Xã hội trong Chính phủ lâm thời, rồi Quyền Chủ tịch Quốc hội. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc, tiếp tục chống Pháp và bị giặc tấn công, sát hại tại Bắc Kạn vào ngày 7/10/1947. Ông để lại nhiều công trình giá trị về kiến thức, văn hóa và ngôn ngữ. 

TUỔI TÂN SỬU

LÊ HOÀN (941-1005): Vị vua sáng lập triều Tiền Lê, quê Hà Nam. Văn võ song toàn, mưu lược, quyết đoán, là Thập đạo tướng quân, thống lĩnh quân đội triều Đinh. Năm 979 làm Nhiếp chính, giúp Thái tử Đinh Toàn nhỏ tuổi vì vua Đinh Tiên Hoàng vừa bị ám sát. Tháng 8 năm 980, gấp rút phòng giặc Tống, được Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng sĩ đồng lòng đưa lên ngôi. Ngoài tích cực cải cách thể chế, phát triển giáo dục, bảo vệ và chấn hưng đất nước, ông còn là người Việt đầu tiên có công mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Trần Quang Khải (1241-1294): Ông là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông; là nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thơ lớn của dân tộc. Dưới triều Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh Đại vương, từng được cử làm Thượng tướng Thái sư, đứng đầu triều đình. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Trần Quốc Tuấn có nhiều công lao lớn trên chiến trường. Ông còn là một nhà thơ với tâm hồn thơ khoáng đạt, gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam. 

BÙI VIỆN (1841-1878): Danh sĩ, nhà cải cách thời Nguyễn, quê Thái Bình. Linh hoạt, hướng ngoại, năm 15 tuổi đỗ cử nhân, làm quan lập công lớn trong việc trấn áp phản loạn, khai hoang lấn biển. Cùng với nhiều sĩ phu thành lập Tân đảng, khuyến nghị triều đình cải cách mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục... Năm 1863, là quan chức Việt Nam đầu tiên đến Mỹ và được Tổng thống Abraham Lincoln tiếp kiến. Ông là nhà cải cách lớn trong lịch sử, để lại nhiều bản tường trình về đổi mới quốc kế dân sinh với nội dung rất thiết thực và tiến bộ.

TUỔI QUÝ SỬU

NGUYỄN BỈNH ĐỨC (1493-1545): Đại thần nhà Mạc, quê Hà Nội. Nhiệt tình, công minh, ham hiểu biết, năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan thăng đến Thiếu sư. Am tường luật pháp, giỏi việc chính trị, đắc lực giúp vua Mạc trong việc hoạch định chính sách, bổ nhiệm, định lệ và xét xử.

LÝ TỰ TRỌNG (1913-1931): Chí sĩ cách mạng, anh hùng thanh niên, quê Hà Tĩnh. Hăng hái, gan dạ, bất khuất, năm 10 tuổi được đoàn thể đưa sang Trung Quốc học ở trường Trung Sơn. Năm 1929, được cử về nước thiết lập Đoàn Thanh niên Cộng sản và làm giao liên cho Xứ ủy Nam kỳ với Trung ương Đảng đặt trụ sở tại Sài Gòn. Ngày 9/2/1931, trong một buổi mít tinh, anh bắn chết thanh tra mật thám Legrand và bị bắt. Trong tù, nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục trước những cực hình tra tấn và thủ đoạn dụ dỗ của địch. Bị kết án tử hình, anh hy sinh lúc mới 18 tuổi nhưng trở thành một biểu tượng Anh hùng bất diệt trong lòng thanh niên và nhân dân Việt Nam.

HUỲNH TẤN PHÁT (1913-1989): Kiến trúc sư, chính khách cách mạng, quê Bến Tre. Chân thành, bản lĩnh, giàu chí tiến thủ, thuở nhỏ học ở Sài Gòn, sau ra Hà Nội học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1938 tốt nghiệp thủ khoa ngành kiến trúc. Năm 1946, đắc cử đại biểu Quốc hội. Sau năm 1954, hoạt động cách mạng trong nội thành Sài Gòn. Năm 1960, thoát ly ra vùng giải phóng và từ năm 1968 làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, trải giữ nhiều cương vị quan trọng, làm tới Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam.
 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Phóng sự ảnh
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội
Tỷ giá ngoại tệ