A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hiệp định Sơ bộ 6-3: Sự lựa chọn chính xác của cách mạng Việt Nam

QPTĐ- Cách đây đúng 78 năm, ngày 6/3/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cộng hòa Pháp ký kết Hiệp định Sơ bộ tại Hà Nội. Bản Hiệp định Việt-Pháp này được đánh giá là kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh ngoại giao của nước Việt Nam mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946.   

 Ảnh: Tư liệu

Từ năm 1945, ở miền Bắc Việt Nam, 180.000 quân của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) hiện diện với danh nghĩa giải giáp quân đội phát xít Nhật. Quân đội Tưởng khi sang Việt Nam còn kéo theo đám phản động người Việt là các đảng Việt Quốc và Việt Cách. Mục đích của quân Tưởng và đám tay sai rất rõ ràng: “Tiêu diệt cộng sản và bắt giữ Hồ Chí Minh”. Tham vọng của lực lượng Tưởng Giới Thạch là bành trướng sang Việt Nam hoặc chí ít tạo ra một chế độ phục tùng Trung Hoa Dân quốc ở đây.

Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Pháp núp bóng quân Anh (giải giáp quân Nhật) để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ thành quả cách mạng.

Sang đầu năm 1946, ván cờ Việt-Pháp-Hoa diễn biến mau lẹ. Khi đó trên lãnh thổ Việt Nam, ngoài 18 vạn quân Tưởng ở miền Bắc còn có 35.000 quân viễn chinh Pháp đang ở miền Nam.

Ngày 28/2/1946, Chính phủ Pháp và chính phủ Tưởng Giới Thạch đã thỏa hiệp với nhau bằng việc ký kết một Hiệp định tại Trùng Khánh, Trung Quốc. Theo đó, quân Pháp sẽ được thay thế quân Tưởng ở miền Bắc Việt Nam (từ ngày 1-31/3/1946), còn phía Tưởng sẽ được Pháp trả lại một số tô giới ở Trung Quốc cũng như được nhận một số lợi ích kinh tế khác.

Ngoài lợi ích kinh tế, còn có 2 yếu tố khác khiến Tưởng chịu rút khỏi Việt Nam, đó là nhu cầu dồn quân chống lại lực lượng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc khi đó và sức ép từ phía Mỹ muốn Tưởng nhượng bộ Pháp.

Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Sáng 6/3/1946, quân Tưởng đã chủ động nổ súng vào tàu chiến Pháp tiến vào cảng Hải Phòng ở miền Bắc. Quân Pháp phản pháo ngay lập tức. Giao tranh kéo dài đến trưa hôm đó, với thương vong và thiệt hại cho cả hai bên. Sự kiện đấu súng này rõ ràng không có lợi cho phe Trung Hoa Dân quốc xét về mặt toàn cục. Nó cũng cho thấy nhiều tầng mâu thuẫn đang tồn tại trong phe Tưởng.

Trong nội bộ giới cầm quyền Pháp cũng có ít nhất 2 phe là chủ chiến và chủ trương thương lượng. Ta nắm rõ nhóm chủ trương thương lượng này của Pháp và đã chuẩn bị kỹ cho một kịch bản ký kết thỏa thuận hòa hoãn.

Trước đó Việt Nam và Pháp đã bí mật đàm phán với nhau nhiều lần. Pháp cũng muốn dàn xếp với Việt Nam để được đưa quân ra Bắc an toàn, tránh tình trạng bị kháng cự mãnh liệt như ở miền Nam.

Tuy nhiên đàm phán bế tắc quanh vấn đề độc lập của Việt Nam. Phía ta không chấp nhận “tự trị” còn phía Pháp không chấp nhận “độc lập”. Trong bối cảnh xảy ra vụ bắn nhau Pháp-Hoa, vào sáng ngày 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra công thức mới để phá vỡ thế bế tắc, đó là thay từ “độc lập” bằng từ “tự do” đi kèm với định nghĩa. “Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do…”. Ta và Pháp đã nhanh chóng ký được bản Hiệp định Sơ bộ vào chiều 6/3/1946.

Như vậy, ở đây Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã nhân nhượng vào đúng thời điểm Pháp chịu sức ép từ quân Tưởng nổ súng. Đảng ta không thể nhân nhượng sớm hơn (khi Pháp còn chưa sứt đầu mẻ trán vì quân Tưởng), cũng không thể muộn hơn vì có nguy cơ lớn Pháp và Tưởng sau vụ “choảng nhau” sẽ bình tĩnh lại và cấu kết với nhau cùng chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-khi đó tình hình sẽ vô cùng khó khăn cho ta.

Tất nhiên sự nhân nhượng ở đây là có nguyên tắc. Bản Hiệp định sơ bộ về cơ bản là có lợi cho ta (tất nhiên nếu có lợi 100% cho ta thì sẽ không thể ký kết được một hiệp định nào với Pháp).

Cụ thể, Hiệp định gồm 5 nội dung chính sau:

“1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính của mình, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp.

2. Chính phủ Pháp cam đoan sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

3. Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp này sẽ phải rút hết trong thời hạn 5 năm, mỗi năm sẽ rút 1/5.

4. Hai bên sẽ đình chiến ngay để mở một cuộc đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy.

5. Cuộc đàm phán chính thức sẽ tiến hành tại Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris với nội dung quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài, quy chế của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của nước Pháp ở Việt Nam”.

Như vậy với việc quyết đoán ký nhanh với Pháp Bản Hiệp định Sơ bộ thì ta đã nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra khỏi miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút hết về nước). Với việc ký kết này, ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành thỏa thuận 3 bên. Hiệp định thể hiện chủ quyền của Việt Nam khi quy định rõ Pháp chỉ được đưa vào miền Bắc 15.000 quân và số quân này phải rút hết trong 5 năm. Hiệp định Sơ bộ cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự của Pháp đối với lực lượng kháng chiến Nam bộ khi đó.

Nhìn tổng thể, Hiệp định 6/3/1946 đã mở ra thời kỳ hòa hoãn tạm thời giữa ta và Pháp, vô hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung lực lượng bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề (“không đồng minh, không tiền và hầu như không vũ khí”-lời của Leon Pignon, Cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp ở Đông Dương). Từ thời điểm này đến ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ta có điều kiện tuyên truyền về chính nghĩa của ta và có thêm thời gian quý báu để xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến dài lâu.

MINH PHƯƠNG

 

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Phóng sự ảnh
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội
Tỷ giá ngoại tệ