QPTĐ- Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế-xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, Việt Nam đã và đang nỗ lực không ngừng để nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo hạnh phúc cho người dân. Năm 2025, Chỉ số Hạnh phúc của Việt Nam tiếp tục ghi nhận những tiến bộ đáng kể, đứng thứ 46/147 quốc gia xếp hạng, tăng 8 bậc so với năm 2024, phản ánh sự thành công của các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường và thúc đẩy văn hóa, giáo dục.

Chỉ số Hạnh phúc của Việt Nam đứng thứ 46/147 quốc gia xếp hạng, tăng 8 bậc so với năm 2024.
Ảnh: Bảo Trung
Ngày Quốc tế Hạnh phúc và Chỉ số Hạnh phúc
Ngày Quốc tế Hạnh phúc (International Day of Happiness) là ngày 20 tháng 3 hàng năm, kể từ năm 2013. Ngày Quốc tế Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Vương quốc Bhutan được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên các yếu tố như sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống và chất lượng sống của người dân. Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 70 thế kỷ XX, Bhutan là quốc gia đã ghi nhận vai trò của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc gia bằng việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội. Họ cho rằng nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới, và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại.
Ngày Quốc tế Hạnh phúc còn khởi nguồn từ nhu cầu về một cách tiếp cận tăng trưởng kinh tế cân bằng, hợp tình hợp lý hơn, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, xóa nghèo và phấn đấu vì hạnh phúc và sự thịnh vượng cho tất cả mọi người và xuất phát từ nguyện vọng mỗi người hãy chọn cho mình một quan niệm đúng về hạnh phúc, quan tâm đến vấn đề cốt lõi nhất trong sự tồn tại là làm sao tìm được thật nhiều niềm vui trong cuộc sống, làm lan tỏa những điều tốt đẹp nhất trên khắp hành tinh xanh.
Ngày này được Tổng thư ký Liên hợp quốc chính thức công bố tại một hội nghị của Liên hợp quốc vào ngày 28 /7/2012. Việc Liên hợp quốc chọn ngày 20 tháng 3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc xuất phát từ nguyên nhân đây là ngày đặc biệt trong năm (ngày xuân phân), khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau và người ta cho đó là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ. Cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực từ đó ngày này được cho là sẽ truyền tải thông điệp rằng cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.
Ngày Quốc tế Hạnh phúc sau khi công bố đã được nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ. Đến nay, đã có 194 quốc gia thành viên hưởng ứng và cam kết sẽ ủng hộ ngày này bằng các nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững, nhằm đem lại hạnh phúc cho người dân.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tích cực trong việc hưởng ứng Ngày quốc tế Hạnh phúc. Khẩu hiệu quốc gia của Việt Nam là Độc lập, Tự do, Hạnh phúc đã trở thành tôn chỉ quốc gia. Năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức Ngày Quốc tế Hạnh phúc với chủ đề “Yêu thương và chia sẻ” đem thông điệp tới mọi người hãy yêu thương và chia sẻ cùng nhau trong gia đình, trong dòng tộc, trong mỗi cộng đồng, giữa những người bạn, người đồng chí, trong mỗi đơn vị, cơ quan, trường học đem lại hạnh phúc cho chính bản thân, gia đình và cộng đồng, góp phần phát triển an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Hằng năm, kỷ niệm Ngày Quốc tế Hạnh phúc, Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên trong đó đánh giá mức độ hạnh phúc của các quốc gia thông qua Chỉ số Hạnh phúc.
Chỉ số Hạnh phúc (Happy Planet Index-HPI) là một thước đo toàn diện, đánh giá mức độ hạnh phúc của người dân dựa trên ba yếu tố chính: Tuổi thọ trung bình, mức độ hài lòng với cuộc sống và dấu chân sinh thái. Chỉ số này không chỉ phản ánh chất lượng cuộc sống mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bền vững môi trường trong việc đảm bảo hạnh phúc lâu dài.
Năm 2025, Việt Nam tiếp tục duy trì vị trí cao trong bảng xếp hạng Chỉ số Hạnh phúc toàn cầu, đạt điểm số ấn tượng nhờ những cải thiện vượt bậc trong các lĩnh vực kinh tế, y tế, giáo dục và môi trường. Điều này khẳng định sự thành công của các chính sách hướng tới con người và phát triển bền vững.
Những dấu ấn bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân
Kinh tế là một trong những dấu ấn quan trọng, là nền tảng để đảm bảo hạnh phúc cho người dân. Năm 2024, Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, với mức tăng trưởng GDP đạt 7,09%. Sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao đã tạo ra hàng triệu việc làm, giúp người dân có thu nhập ổn định và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Một trong những thành tựu nổi bật là việc giảm tỷ lệ nghèo đa chiều chung toàn quốc xuống còn 4,06%, giảm 1,65% so với năm 2023 theo công bố của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Các chương trình hỗ trợ người nghèo, như cho vay vốn ưu đãi, đào tạo nghề và hỗ trợ y tế, giáo dục, đã giúp hàng triệu hộ gia đình thoát nghèo bền vững. Đặc biệt, các chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa đã góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và nâng cao mức sống cho người dân.
Tuổi thọ trung bình là một trong những yếu tố quan trọng trong Chỉ số Hạnh phúc. Năm 2024, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đạt 75,5 tuổi, tăng đáng kể so với những năm trước. Thành tựu này là kết quả của việc đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống y tế, bao gồm cả y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình y tế quốc gia, như tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý y tế và khám chữa bệnh từ xa đã giúp người dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn và miền núi, tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao một cách thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân tiếp tục được mở rộng, với tỷ lệ bao phủ đạt hơn 93,35% dân số. Điều này giúp giảm gánh nặng chi phí y tế cho người dân, đặc biệt là những hộ gia đình có thu nhập thấp.
Giáo dục là chìa khóa để nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo hạnh phúc lâu dài. Việt Nam tiếp tục đạt được những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực giáo dục, với tỷ lệ biết chữ đạt 97% và tỷ lệ nhập học tiểu học đạt gần 100%. Chính phủ đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng giáo dục, đào tạo giáo viên và cải cách chương trình học, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong thời đại công nghệ số. Đặc biệt, giáo dục đại học và dạy nghề cũng được chú trọng, với nhiều chính sách hỗ trợ sinh viên và người lao động. Các chương trình đào tạo kỹ năng mềm, ngoại ngữ và công nghệ thông tin đã giúp người trẻ tự tin hơn khi tham gia vào thị trường lao động, từ đó nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.
Một trong những yếu tố quan trọng của Chỉ số Hạnh phúc là dấu chân sinh thái, phản ánh mức độ tác động của con người đến môi trường. Năm 2024, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách nhằm giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ rừng và phát triển năng lượng tái tạo. Theo Báo cáo Chỉ số Hạnh phúc, tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo tại Việt Nam đạt 25%, tăng đáng kể so với những năm trước. Các dự án điện mặt trời, điện gió và thủy điện nhỏ đã góp phần giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các chiến dịch trồng cây xanh, bảo vệ rừng và chống rác thải nhựa đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cộng đồng.
Văn hóa và đời sống tinh thần là yếu tố không thể thiếu trong việc đảm bảo hạnh phúc cho người dân. Năm 2024, Việt Nam tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Các lễ hội, sự kiện văn hóa và du lịch đã thu hút hàng triệu lượt khách tham gia, góp phần nâng cao đời sống tinh thần và tạo thêm việc làm cho người dân.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ phát triển thể thao và giải trí cũng được triển khai rộng rãi. Các công viên, khu vui chơi và trung tâm thể thao được xây dựng tại nhiều địa phương, tạo điều kiện cho người dân rèn luyện sức khỏe và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng.
Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc đảm bảo hạnh phúc cho người dân là minh chứng rõ nét cho sự nỗ lực không ngừng của Chính phủ và toàn xã hội. Từ việc cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao tuổi thọ đến bảo vệ môi trường và phát triển văn hóa, Việt Nam đã và đang từng bước xây dựng một xã hội hạnh phúc, bền vững.
ĐỨC MINH