Đập tan phòng tuyến Phan Rang
QPTĐ-Sau khi mất toàn bộ vùng đất Quân khu 1 và phần lớn Quân khu 2, chính quyền Sài Gòn đã nhanh chóng tổ chức tuyến phòng thủ Phan Rang, bảo vệ Sài Gòn và các vùng đất còn lại, hy vọng có thể cản phá hoặc làm chậm bước tiến của ta trên hướng duyên hải vào Sài Gòn.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm dinh Tỉnh trưởng Phan Rang,
mở đường tiến quân về giải phóng Sài Gòn.
Ảnh tư liệu
Ngày 2/4/1975, theo kế hoạch phòng thủ của tướng Mỹ Uây-oen, chính quyền Sài Gòn sáp nhập các phần đất còn lại của Quân khu 2 vào Quân khu 3, đồng thời, lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 3 do viên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy, đóng tại sân bay Thành Sơn, để tổ chức lực lượng phòng thủ. Lực lượng địch có khoảng 12.000 quân, với 2 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 chi đội thiết giáp; 150 máy bay và Sở chỉ huy Sư đoàn 6 không quân mới rút từ Tây Nguyên về sân bay Thành Sơn; khoảng 7-10 tàu chiến ở cảng Ninh Chữ.
Phán đoán ta có thể tiến công vào Phan Rang từ hướng Bắc theo đường số 1 và hướng Tây Bắc theo đường 11, địch điều các đơn vị bộ binh ra chiếm giữ các địa bàn có lợi ở Du Long, Suối Đá, Ba Râu, Hội Diên, Cà Đú, ngã ba đường số 1 và đường 11, lập tuyến phòng thủ ngăn chặn ta.
Về phía ta, theo đề nghị của Thường vụ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Thường vụ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định hình thành cánh quân ven biển (Duyên hải) gồm các lực lượng vừa giải phóng Đà Nẵng, nhanh chóng tiến quân đánh địch trong hành tiến, tiêu diệt địch và làm chủ các địa bàn chiến lược từ Nha Trang trở vào, không cho địch co cụm về Sài Gòn.
Để nhanh chóng đưa bộ đội vào tham gia giải phóng Sài Gòn, Tư lệnh cánh quân Duyên hải quyết định tổ chức lực lượng tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang của địch. 5 giờ 30 phút, ngày 14/4/1975, các đơn vị thuộc Sư đoàn Bộ binh 3-Quân khu 5 phối hợp với Trung đoàn Bộ binh 25 Mặt trận Tây Nguyên, được pháo binh chi viện, nổ súng tiến công địch. Kết hợp đột phá, thọc sâu với vu hồi, bộ đội nhanh chóng phá vỡ cụm phòng ngự của địch ở phía Bắc thị xã, áp sát sân bay Thành Sơn.
Tiếp đó, để nhanh chóng đập tan tuyến phòng thủ của địch, nhanh chóng mở đường tiến vào Sài Gòn, Bộ Tư lệnh cánh quân Duyên hải quyết định đưa các lực lượng của Quân đoàn 2 vừa hành quân tới Phan Rang vào chiến đấu ngay và 5 giờ ngày 16/4, Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An thực thi mệnh lệnh, cho Sư đoàn 325 vào trận. Trung đoàn Bộ binh 101-Sư đoàn 325 tổ chức thành mũi nhọn thọc sâu binh chủng hợp thành, xuất phát từ vị trí bàn đạp của Sư đoàn 3, phối hợp Tiểu đoàn 4 (Lữ đoàn Xe tăng 203) tiến công trong hành tiến theo đường số 1, đột phá thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Phan Rang. Dẫn đầu đội hình tiến công là Tiểu đoàn 1, bộ binh ngồi trên 20 xe tăng, thiết giáp. Tiểu đoàn 2 và 3 ngồi trên xe bánh hơi tiếp sau. Một số khẩu pháo nòng dài 85mm và cao xạ 37mm cơ động trong đội hình sẵn sàng ngắm bắn trực tiếp vào các mục tiêu trên mặt đất và bắn máy bay địch. Lữ đoàn 164 Pháo binh đi phía sau làm nhiệm vụ chi viện hoả lực cho đội hình thọc sâu.
Phối hợp với mũi chính diện, Sư đoàn 3 và Trung đoàn 25 tiến công một số mục tiêu trong thị xã và sân bay Thành Sơn. Bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, đặc biệt là sức đột phá mạnh của xe tăng, thiết giáp, sau hai giờ chiến đấu, ta đã đánh tan các cụm quân địch phòng thủ ở Hội Diên, An Xuân, ngã ba Cà Đú, khu vực trường bắn, sau đó tiến thẳng vào trung tâm thị xã. Đến 7 giờ ngày 16/4, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 và Tiểu đoàn 4 xe tăng, thiết giáp đã làm chủ thị xã, nhanh chóng chia thành nhiều mũi phát triển tiến công, đánh chiếm các cảng Ninh Chữ, Tân Thành, quận lỵ Bửu Sơn và sân bay Thành Sơn, bịt kín các đường rút quân của địch. Một bộ phận phát triển theo đường số 1 đánh chiếm cầu Đạo Long và quận lỵ Phú Quý, khoá chặt đường bộ, không cho địch chạy về phía Nam. Địch đã huy động hàng chục lần chiếc máy bay ném bom vào phía sau đội hình hành quân của ta trên đường số 1; đồng thời, đưa quân dù từ sân bay Thành Sơn ra phản kích. Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 đã đánh lui các đợt phản kích của địch. 9 giờ 30 phút ngày 16/4, ta làm chủ sân bay Thành Sơn, tiếp tục truy kích tàn quân địch ở Cà Ná. Tối 16/4, ta đánh tan tuyến phòng thủ Phan Rang, giải phóng tỉnh Ninh Thuận và một phần phía Bắc tỉnh Bình Thuận.
Kết quả, ta đã đập tan tuyến phòng ngự từ xa của địch ở Phan Rang, tiêu diệt các Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3, Sư đoàn 6 không quân, Sư đoàn 2 bộ binh, Lữ đoàn 2 dù, Liên đoàn 31 biệt động, một trung đoàn của sư đoàn mới khôi phục, toàn bộ lực lượng của tiểu khu Ninh Thuận, làm chủ cảng Tân Thành và Ninh Chữ, chiếm sân bay Thành Sơn, thu 40 máy bay, 60 khẩu pháo cùng nhiều phương tiện và đồ dùng quân sự, loại khỏi vòng chiến đấu và làm tan rã toàn bộ quân địch trên tuyến phòng thủ Phan Rang gồm hơn một vạn tên; bắt sống viên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân ngụy cùng nhiều sĩ quan, binh lính địch.
Với chiến thắng Phan Rang, ta đã đập tan kế hoạch phòng thủ từ xa của địch, tạo thế thuận lợi giải phóng Bình Tuy, Bình Thuận, kịp thời đưa toàn bộ cánh quân Duyên hải vào giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Sáng 19/4/1975, đội hình tiến công của Quân đoàn 2 ào ạt đánh qua tỉnh Bình Tuy, tiến về phía Xuân Lộc.
Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Thành Hữu