A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đồng chí Tôn Đức Thắng-một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, sáng ngời đạo đức cách mạng

 

QPTĐ-Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888, trong một gia đình nông dân ở cù lao Ông Hồ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Dị, đều là những nông dân cần cù, hiền lành, chất phác.

 

 

Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng thăm Liên đội tự vệ Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng đã bắn rơi máy bay Mỹ ngày 22/12/1972.   

 Ảnh tư liệu


Thời thơ ấu, Tôn Đức Thắng được gia đình cho học chữ nho, chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Truyền thống quê hương và những tấm gương anh dũng chống thực dân Pháp của nghĩa quân Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Nguyễn Tuấn Kiều…, đã in sâu trong tâm hồn Tôn Đức Thắng, thắp lên trong lòng những dự định lớn lao. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên, năm 1907, Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn với ý định học việc và thực hiện hoài bão của mình.

 

Vốn thông minh, có tính độc lập cao, có năng khiếu lao động kỹ thuật, giàu lòng thương người, Tôn Đức Thắng đã nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Nhận ra sức mạnh và những bất công mà giai cấp công nhân phải chịu đựng, càng giúp Tôn Đức Thắng  thêm quyết tâm thực hiện lý tưởng, khát vọng làm những việc hữu ích cho đất nước, cho dân tộc và giai cấp công nhân. Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (một tổ chức tiền thân của Đảng ta); cũng trong năm đó, đồng chí được cử làm Ủy viên Ban chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn. 


Tháng 7/1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam ở Khám lớn (Sài Gòn),  sau đó bị địch kết án 20 năm tù khổ sai, tháng 7/1930, bị đày ra Côn Đảo. Tại đây, đồng chí đã tham gia vận động thành lập Chi bộ Cộng sản nhà tù Côn Đảo và là một trong những Chi ủy viên đầu tiên. Gần 17  năm bị giam ở ngục tù đế quốc, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ là một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất trong đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ.

 

Đồng chí đã đề xướng việc thành lập Hội cứu tế tù nhân-Hội tù Côn Đảo đầu tiên; góp phần quan trọng vào việc thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo, mở ra thời kỳ đấu tranh mới của tù nhân Côn Đảo, thời kỳ đấu tranh có tổ chức, có phương pháp, với mục tiêu cụ thể trước mắt và mục tiêu lâu dài. Đặc biệt, khi Chi bộ thực hiện chủ trương biến “nhà tù thành trường học cộng sản”, đồng chí Tôn Đức Thắng tích cực hưởng ứng, gương mẫu học tập và tham gia vào truyền bá những kiến thức về lý luận cơ bản và nội dụng huấn luyện cho các tù nhân. Nhờ sự bí mật, khôn khéo, đồng chí Tôn Đức Thắng đã giúp Chi bộ vừa chuyển được thư từ, tài liệu ở Côn Đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách lý luận gồm những tác phẩm kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin… dùng làm tài liệu học tập trong tù. 


Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Hội tù nhân do đồng chí Tôn Đức Thắng chỉ huy đã có nhiều hình thức và tổ chức hoạt động phong phú, phù hợp với hoàn cảnh mới. Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng đồng minh không điều kiện; chớp thời cơ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

 

Theo tinh thần đó, cấp ủy, chi bộ Côn đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử vào đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà, buộc Trà phải đồng ý một số vấn đề như: Tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, sửa chữa vô tuyến điện, sửa chữa radio để nghe tin tức, sửa chữa cano để đưa đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ. Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng kiên cường, sáng ngời bản lĩnh và niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc để vượt qua sự khốc liệt của ngục tù đế quốc đã làm các đồng chí đảng viên tù Côn Đảo ngưỡng mộ và làm cho kẻ thù khiếp sợ.


Ngày 15/10/1945, sau khi từ Côn Đảo trở về, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ, phụ trách Ủy ban kháng chiến, chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. 


Từ đó, đồng chí Tôn Đức Thắng tham gia hoạt động trên nhiều cương vị khác nhau. Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa III, đồng chí được bầu là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Ngày 30/3/1980, đồng chí Tôn Đức Thắng từ trần.


Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Trên 60 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao vàng-huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, được Đảng, Nhà nước ta trao tặng Huân chương Đại đoàn kết; được Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ trao tặng Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Mông cổ; Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cu Ba trao tặng Huân chương Hữu nghị Cu Ba; Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin-huân chương cao nhất của Liên Xô,… cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.


Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta càng thêm kính trọng, tự hào và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đồng chí-một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, sáng ngời đạo đức cách mạng đã hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một tấm gương mẫu mực để cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô học tập và noi theo. 


BBT 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội
Tỷ giá ngoại tệ